Dược liệu Vòi Voi
- Tên thường dùng: Vòi voi, Dền voi, cẩu vĩ trùng, đại vĩ đao, promoi dảmey-xantui
- Tên khoa học: – Heliotropium indicum L
Mô tả dược liệu vòi voi
Vòi voi (là vì cụm hoa của cây giống như hình vòi con voi), còn gọi là cẩu vĩ trùng, đại vĩ đạo, tên khoa học là Heliotropium indicum, thuộc họ Vòi voi (Borraginaceae). Cây mọc hoang khắp nơi, dân gian thường dùng toàn cây, hái về phơi khô hoặc dùng tươi.
Vòi voi là loại cây thảo mộc mọc hoang, sống lâu năm, cao khoảng 25-40 cm. Thân cây khỏe, cứng, có nhiều lông nhám; lá hình bầu dục dài, nhăn nheo, mép lá có răng cưa. Hoa màu tím hoặc trắng, không có cuống, mọc xếp liền nhau thành 2 hàng dài.
Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của cố Giáo sư Đỗ Tất Lợi, thì vòi voi có hai tác dụng chủ yếu là chống viêm, giảm đau.
Tuy nhiên, hiện nay người ta đã phát hiện một số loài vòi voi như H.lariocarpum Fish et Mey chứa ancaloid có nhân pyrolizidinn rất độc đối với gan và gây hủy hoại tổ chức gan, đau bụng tiêu chảy, xuất huyết lan tỏa và có thể gây ung thư. Tính độc này thường không thể hiện ngay khi dùng, mà thường xuất hiện một cách âm ỉ, kéo dài, khó phát hiện. Vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo không nên dùng vòi voi làm thuốc..
- Vòi voi được BYT đưa vào danh mục các dược liệu độc làm thuốc.
Bài thuốc có dược liệu Vòi Voi
Theo báo suckhoedoisong BYT
Cây vòi voi còn gọi là cẩu vĩ trùng, đại vĩ đạo. Tên khoa học là Heliotropium indicumL., gọi vòi voi vì cụm hoa của cây giống như hình vòi con voi. Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của cố giáo sư Đỗ Tất Lợi, vòi voi có hai tác dụng chủ yếu là chống viêm, giảm đau. Những năm 1961 – 1962, Bệnh viện Hải Dương đã dùng cao rượu vòi voi điều trị cho 856 bệnh nhân bị bong gân, tụ huyết sưng bầm do chấn thương, viêm tấy, chín mé, viêm hạch và đã đi tới một số kết luận:
- Cao rượu vòi voi có tác dụng với những trường hợp viêm hay cương tụ huyết chưa làm mủ. Chỉ cần đắp cao rượu vòi voi trong 3 – 4 ngày, đắp ướt liên tục.
- Nếu đã có mủ rồi, cao rượu vòi voi không có tác dụng làm tan mủ, nhưng cũng làm cho mủ không lan rộng hơn và làm bớt sưng tấy ở những vùng xung quanh ổ mủ.
– Sau khi chích mủ, nếu băng bằng cao rượu vòi voi, vết thương chóng lành và đỡ đau hơn là băng thường. - Cao rượu vòi voi đắp lên chỗ sưng làm dịu đau ngay, bệnh nhân có cảm giác mát dịu, dễ chịu, không nhức nhối như khi chưa đắp thuốc.
- Chữa sưng tấy gối với những triệu chứng sau: trước phát bệnh mỏi đầu gối, 3 hôm sau vùng đầu gối đỏ và sưng to lên, người lên cơn sốt nhẹ, không đi lại được. Dùng cây tươi, chặt thành từng đoạn nhỏ, giã cho dập, bỏ vào nồi sao với dấm hoặc với rượu gói vào miếng vải, buộc vào chỗ sưng. Làm như vậy khi có kết quả thì ngừng.
- Vòi voi là một vị thuốc chữa tê thấp viêm tấy, mụn nhọt, viêm họng, mẩn ngứa. Dùng trong hay đắp bên ngoài. Ngày uống 15 – 20g tươi. Có người còn dùng làm thuốc điều kinh nhưng liều quá cao có thể gây sảy thai.
Tuy nhiên, người ta phát hiện một số loài vòi voi như H.lariocarpum Fish et Mey chứa ancaloid có nhân pyrolizidinn rất độc đối với gan và gây hủy hoại tổ chức gan, đau bụng tiêu chảy, xuất huyết lan tỏa và có thể gây ung thư. Tính độc này thường không thể hiện ngay khi dùng, mà thường xuất hiện một cách âm ỉ, kéo dài, khó phát hiện. Vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo không nên dùng vòi voi làm thuốc và Bộ Y tế Việt Nam (năm 1985) cũng đã có chỉ thị cần thận trọng khi dùng vòi voi chữa bệnh, mặc dù chỉ dùng ngoài để đắp theo kinh nghiệm cổ truyền: trong các trường hợp tụ huyết bầm tím do chấn thương, viêm tấy áp-xe, sưng vù, sưng khớp, đinh nhọt giai đoạn chưa có mủ. Chú ý không nên dùng cho người già yếu và khi có kết quả nên ngừng ngay.
- Từ những thông tin trên, lời khuyên với mọi người dù là thuốc từ cây lá cũng phải có chỉ định thận trọng của thầy thuốc.